Khái niệm vốn chủ sở hữu của ngân hàng là gì?
Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại có thể được hiểu là nguồn tiền thuộc sở hữu hợp pháp của chủ NH trong một thời gian dài, chủ yếu bao gồm các khoản vốn NH được cấp, hoặc được đóng góp bởi những người chủ ngân hàng khi mới thành lập, cộng với những khoản được trích lập, giữ lại từ lợi nhuận hoạt động.

vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại
Về cơ bản, cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại không phải hoàn trả, chủ NH có thể tăng, giảm (với sự đồng ý của cơ quan chức năng), thay đổi cơ cấu của vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại, hoặc quyết định các chính sách phân phối lợi nhuận vốn dĩ có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn này.
Song, là một định chế tài chính đặc biệt, vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại mang một số điểm riêng có như về thành phần của vốn, vai trò của vốn, v.v… Với chức năng là trung gian tín dụng, NHTM chỉ lấy vốn chủ sở hữu làm bàn đạp ban đầu; Còn lại, họ không ngừng huy động tiền của các chủ thể khác trong xã hội và nền kinh tế để tài trợ cho các hoạt động của mình.
Do đó, ngay cả khi gia tăng về số lượng tuyệt đối theo đà phát triển của NH, vốn chủ sở hữu vẫn chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ, đôi khi là rất nhỏ (như trường hợp các NHTM Việt Nam) trong tổng nguồn vốn của NH. ví dụ: tại Deutsche Bank (một trong những NH hàng đầu Châu Âu và thế giới, có lịch sử từ năm 1876), đến 31/12/2006: Tổng nguồn vốn là 1.126 tỷ Euro, trong khi vốn chủ sở hữu chỉ là 32,8 tỷ Euro.
Tuy nhiên, chiếc bánh xe nhỏ ấy lại là khớp nối cho cả guồng máy ngân hàng, đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo khả năng phát triển lâu dài của NHTM, đồng thời các thành phần của vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại cũng được phân loại một cách chi tiết để đáp ứng các công tác đánh giá vốn của NH (sẽ đề cập ở các phần sau).
Năm 1988, Uỷ ban giám sát ngân hàng Basel (Basel Committee on Banking Supervision) đã đưa ra văn bản: “Sự thống nhất quốc tế về đo lường vốn và các tiêu chuẩn vốn” (International Convergence of Capital Measurement and Capital Standards ), trong đó đưa ra định nghĩa dựa trên các thành phần của vốn tại NHTM (Capital )_ mà bản chất là vốn chủ sở hữu.
Hiện tại, Luận Văn 24 đang cung cấp dịch vụ giá làm báo cáo thực tập, dịch vụ viết assignment , dịch vụ spss , làm tiểu luận thuê chuyên nghiệp nhất thị trường. Hãy liên hệ ngay với chúng tôi để được hỗ trợ từ A-Z.
Từ đó đến nay, đặc biệt là trong thời gian gần đây khi thị trường tài chính phát triển hết sức sôi động, hầu hết các NH trên thế giới đều áp dụng những chuẩn mực phân loại đó. Các nhà kinh tế và học giả Việt Nam cũng đi theo tinh thần của văn bản trên, song lại thiếu sự thống nhất về tên gọi. Điều này khiến cho việc tìm hiểu bản chất của phạm trù VCSH sao cho đúng với thông lệ quốc tế và pháp luật Việt Nam có phần phức tạp.
Trong những tài liệu thuộc lĩnh vực NH (của Việt Nam hoặc được dịch sang tiếng Việt), các tác giả đưa ra nhiều cách gọi tên khác nhau khi đề cập đến vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại: “Vốn tự có”; hoặc “VCSH”; hoặc đồng nhất các khái niệm “Vốn”, “Vốn tự có”, “VCSH”. Trong các văn bản luật có liên quan, như Luật các tổ chức tín dụng (Số 02/1997/QH10) Chương I_Điều 20_khoản 13 và bản sửa đổi bổ sung (Số 20/2004/QH11) Điều 1_khoản 3, hay trong một văn bản quan trọng có đề cập trực tiếp những vấn đề về vốn của NH là Quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của TCTD (Số 457/2005/QĐ-NHNN) Phần II_Mục I_Điều 3, cũng chỉ đưa ra khái niệm “Vốn tự có”.
Tuy nhiên, như đã nói, xét về mặt bản chất, sau khi tổng kết nội dung các cuốn sách, nghiên cứu khoa học, và báo chí của Việt Nam bàn về vốn chủ tại NHTM, thì có thể thấy gốc rễ quan điểm của các tác giả đều thống nhất; tuy cách gọi khác nhau nhưng nội hàm và ngoại diên đều tương tự và đi theo tinh thần lý luận của Hiệp ước Basel .
#LV24 , #luan_van_24 , #luận_văn_24, #giá_thuê_viết_luận_văn_tốt_nghiệp
Nhận xét
Đăng nhận xét